Gieo chữ nơi đại ngàn
Lượt xem:
Các giáo viên vùng cao không chỉ biết dạy chữ mà còn phải đi sâu vào ngõ ngách, thôn bản để dìu dắt học trò đến lớp, tuyên truyền nhận thức cho đồng bào về lợi ích của giáo dục. Họ phải tập cho con em địa phương từ bỏ thói quen sống tự do như con chim, con nai trên rừng, giúp các em lội từ rừng sâu ra tiếp cận với ánh sáng văn hoá. Cô giáo Đinh Thị Bích Thuận là một trong những giáo viên “cắm bản” làm được điều đó. Và cô vẫn đang viết tiếp câu chuyện tình người trong sự nghiệp “trồng người” ấy . |
Cô giáo Thuận bên các học trò vùng cao |
Là một trong những thế hệ giáo viên đầu tiên trong “đội quân” cắm bản hành quân lên đất Sơn Tây sau thời điểm tách huyện năm 1994, cô giáo Đinh Thị Bích Thuận (Thị trấn Sơn Hà, huyện Sơn Hà) đã âm thầm đem cái chữ “gieo xuống” vùng đại ngàn Sơn Long. Với 38 tuổi đời, 17 năm tuổi nghề, lắng đọng trong ký ức của cô là những kỷ niệm buồn vui và trong sâu thẳm vẫn là khát vọng ‘đem ánh sáng văn minh” đến với con em đồng bào vùng sâu, vùng xa.
Nặng lòng với học trò Đầu đông, những cơn mưa trắng trời phủ giăng giăng khắp các cánh rừng. Con đường từ huyện lị Sơn Tây về xã Sơn Long vốn đã lầy lội càng bị dìm sâu dưới lớp bùn đất đặc quánh. Đồng chí cán bộ phòng giáo dục huyện đi cùng cho biết: “Khó đi là vậy, nhưng bây giờ còn có đường, chứ ngày trước những giáo viên như cô Thuận phải vạch rừng mà đi dạy đấy”. Nghe anh nói, tôi càng cảm phục tấm lòng “yêu trẻ, yêu nghề” của người giáo viên nơi rừng thiêng nước độc. Sau hai giờ đồng hồ vật vã trên con đường lầy lội, tôi cũng đến được lớp học mầm non, ở điểm trường Tà Vay, thuộc Tập đoàn 20, thôn Ra Pân, xã Sơn Long, nơi cô Thuận đứng lớp. Biết có khách, chưa kịp chào hỏi xã giao, cô đã vội vàng bế cậu học trò Đinh Văn Sướng (5 tuổi) ra phía sau trường để vệ sinh, bởi cu cậu vừa ị ra giữa lớp. Vừa chạy, cô vừa nói: “Cu Sướng hôm nay bị đau bụng”. Nghỉ tay, cô Thuận tiếp lời: “Các cháu đau bụng còn đỡ, chứ tội nhất là chúng thường xuyên đi học đói, bị xỉu ngay tại lớp như cơm bữa.”. Thấy tôi tròn xoe mắt vì ngạc nhiên, cô Thuận giải thích: Bọn trẻ phải dậy sớm từ 5 giờ sáng, đi bộ hai giờ đồng hồ mới đến lớp. Cha mẹ chúng phải lo đi rừng, lên rẫy kiếm cái ăn. Cháu nào may mắn được mẹ nhắc cho cái củ mì nướng ăn lót dạ, còn đa số đều đi học với cái bụng trống rỗng. Những lúc như vậy, “người mẹ hiền” ấy phải tất bật bỏ tiền túi ra mua mì tôm, sữa về làm “ấm bụng” để các cháu có sức học tiếp. Cô giáo Thuận bùi ngùi kể về hành trình gian khó: Sau khi học xong lớp 11 Trường Dân tộc Nội trú tỉnh, năm 1996, Thuận được phân công về dạy học ở Trường tiểu học Sơn Tinh. Sau đó Thuận tham gia lớp đào tạo giáo viên mầm non do Dự án trẻ thơ của Bộ Giáo dục mở ngay tại huyện Sơn Tây. Năm 2002, nên cô đã tình nguyện về cắm bản ở nơi heo hút của xã Sơn Dung (nay là xã Sơn Long mới chia tách năm 2008). Ngày đầu tiên đặt chân đến Sơn Long, Thuận sững sờ, bởi chẳng thấy trường lớp đâu, chỉ là chiếc nhà sàn tạm bợ, học trò thì phải chờ đi vận động. Một mình đơn độc giữa vùng đất hoang vu, bấy giờ Thuận là giáo viên nữ “đẹp duy nhất” cùng với vài đồng nghiệp nam đang dạy ở điểm trường tiểu học lúc bấy giờ. Không có nhà ở, một người dân địa phương thương tình cho cô ở nhờ. Những ngày tháng sống kham khổ; rồi những đợt về thăm gia đình, đi bộ cả ngày đường, đối diện với hiểm nguy từ thú dữ đã có lúc làm “lung lay” ý chí sắt đá của người giáo viên trẻ. “Nhưng lúc đó, thương mấy đứa nhỏ quá, tôi không thể bỏ cuộc được”.Nan giải nhất đối với cô lúc này là làm sao thay đổi được nhận thức đồng bào để cho con em đến trường học cái chữ. Lớp học ban đầu huy động được 45 học sinh, sau đó “rơi rụng” hơn gần phân nữa. Ngàn lí do cho cái sự học giã gạo của bọn trẻ, nào là có em không có đồ mặc nên không thể đến lớp; có em bố mẹ không cho đi học nữa vì “đi học làm gì, học chữ có no cái bụng không?… Những lúc như vậy, cô Thuận vừa phải lo công tác chuyên môn, vừa băng rừng, vượt suối đến từng nhà vận động học trò đi học lại. Chỉ vỏn vẹn với đồng lương 170 nghìn/tháng lúc này, cô Thuận phải tằn tiện để dành tiền mua đồ dùng, quần áo và cả kẹo, bánh để “dụ” đám học trò nhỏ. Tấm lòng của cô đã lay động được bà con dân bản, gieo yêu thương vào từng lứa học trò, để rồi chúng quyết tâm theo cô giáo “kiếm chữ”. Gác lại nỗi niềm riêng Lặng lẽ từng ngày gieo chữ, đến nỗi “quên” chuyện lấy chồng, cha mẹ cô sốt ruột. Mỗi lần về thăm nhà, mẹ Thuận nằm bên đứa con gái đã bước qua tuổi “ế” thỏ thẻ: “Mày lấy chồng đi cho tao và cha mày đỡ lo”. Những lúc như vậy, Thuận chỉ biết an ủi mẹ: “Con cũng muốn lắm, nhưng có ai ưng đâu mà lấy”. Mà cũng bởi hoàn cảnh, cái vùng đất heo hút ấy thì biết tìm đâu ra ý chung nhân, khi mà xung quanh cô đều là những đồng nghiệp nam đã có vợ con cả. “Cô cũng đâu phải đứa con gái xấu xí gì, cũng xinh đẹp, nết na chịu khó. Đám trai làng thấy cô giáo Thuận, chỉ dám thương thầm chứ không dám tán tỉnh”- Anh Đinh Xun Hân, đồng nghiệp cô Thuận nhận xét. Ở quê, mẹ Thuận nhờ người mai mối, nhưng không mối nào thành công. Bởi điều kiện họ đưa ra là cô phải nghỉ dạy ở nhà, “chứ con gái gì mà đi miết, cả tháng mới về một lần”. “ Lúc đó, nghĩ đến cảnh ở lại quê lấy chồng, xa mấy đứa nhỏ, xa dân bản. Tôi buồn, khóc mấy đêm liền”-Cô Thuận tâm sự. Thế là cô quyết định “không chồng con gì cả”, lại vác ba lô lên đường, tiếp tục sự nghiệp “cõng chữ lên non”. Cô dành thời gian nhiều hơn để chăm chút cho những “búp măng non” của mình. Mãi đến năm 30 tuổi, một bận tình cờ cô giáo Thuận gặp anh Võ Quang (33 tuổi), ở Quảng Nam. Lúc bấy giờ a đang phiêu bạc khắp cánh rừng ở Sơn Tây để tìm trầm. Một cơn sốt rét rừng đã quật ngã sức vóc chàng trai vạm vỡ, để rồi anh phải nán lại vùng đất này. Thấy cô giáo Thuận, hiền lành, chịu thương chịu khó, anh đã say đắm từ cái nhìn đầu tiên. Anh quyết định, định cư tại Sơn Long. Dần dà anh cũng “cưa đổ” người đẹp. Kết quả của tình yêu ngọt ngào ấy là hai đứa con ngoan hiền 1 trai, 1 gái. Điều mong mỏi nhất của cô giáo Đinh Thị Bích Thuận là sớm có ngôi trường khang trang, đầy đủ dụng hơn để học trò vùng khó nơi đây vơi bớt thiệt thòi. Những cơn mưa nơi thâm sơn không ngừng trút xuống, tiếng trẻ con vẫn ê a bên lớp học. Đường trở về đang thách thức phía trước, nhưng tôi thấy lòng mình ấm lạ. Bởi tấm lòng của cô giáo Thuận đẹp tinh khiết như cánh hoa rừng hoang sơ giữa đại ngàn. Tấm lòng ấy đã dìu dắt bao lứa học trò vùng khó này biết đến ánh sáng của tri thức, thắp sáng vùng đất còn lắm gian khó này. Bài, ảnh: KIM NGÂN |